1. Nguyên nhân gây bệnh
Ngày nay, người ta vẫn chưa thể xác định được nguyên nhân cụ thể gây ra UTTLT. Cũng như tất cả các loại ung thư khác, sự sinh sản của những tế bào bị đột biến gen nhiều lần được xem như là nguyên nhân gây ra UTTLT. Sự sinh sản này xảy ra liên tục và không ngừng do các tế bào đột biến không còn chịu sự kiểm soát của cơ thể. Vì thế, bệnh luôn có khuynh hướng lan rộng tại chỗ cũng như lan sang các cơ quan khác (di căn). Tuy nhiên, qua những thống kê dịch tễ học, người ta nhận thấy có một số yếu tố nguy cơ như sau :
- Tuổi càng cao càng dễ bị UTTLT.
- Tiền sử gia đình: nếu trong gia đình đã có người mắc bệnh thì cần chú ý đến những người cao tuổi trong gia đình.
- Những người mà điều kiện làm việc tiếp xúc nhiều với các chất phóng xạ.
- Ăn nhiều thịt, mỡ động vật: vì thịt động vật nấu ở nhiệt độ cao sẽ sinh ra chất heterocyclic amines, hoặc khi nướng trên lửa sẽ sinh ra polycyclic aromatic hydrocarbons, là những chất gây ra ung thư. Dầu thực vật, mỡ cá và các sản phẩm từ sữa như bơ, phô-mai không có nguy cơ gây UTTLT.
- Các thực phẩm giàu năng lượng dễ gây ra UTTLT. Một số nghiên cứu cho thấy có sự liên hệ giữa UTTLT và những người có khối lượng cơ thể quá khổ, chỉ số BMI cao (body mass index).
- Hoạt động tình dục nhiều cũng có thể gây ra UTTLT, tuy nhiên vấn đề này còn đang gây nhiều tranh cãi. - Phì đại tiền liệt tuyến cũng góp phần trong UTTLT. - Những người thắt ống dẫn tinh sẽ tăng nguy cơ UTTLT hơn người bình thường sau 20 năm.
- Thiếu sinh tố D. Các yếu tố giúp giảm nguy cơ UTTLT - Lycopene là một chất carotenoid có nhiều trong cà chua. Ăn nhiều lycopene giúp giảm UTTLT 21%.
- Sinh tố A với chất beta-carotene giúp giảm nguy cơ UTTLT.
- Sinh tố E (alpha-tocopherol) và chất selenium cũng giúp giảm UTTLT.
- Phytoestro-gens có tác dụng như một estrogens yếu và là một chất chống ôxy hóa gồm 2 nhóm hợp chất giống nội tiết tố sinh dục nữ: Isoflavonoids và lignans có nhiều trong đậu nành và những loại rau khác sẽ giúp chống UTTLT.
- Hoạt động thể dục thể thao.
2. Dấu hiệu lâm sàng khi mắc UTTLT
Có thể gặp các triệu chứng tại chỗ và triệu chúng toàn thân:
Triệu chứng tại chỗ:
- Bí đái gặp 20-25%.
- Đau lưng, đau chân gặp 20-40%
- Đái máu gặp 10-15%.
- 47% bệnh nhân mắc ung thư tiền liệt tuyến không có triệu chứng. Triệu chứng toàn thân
- Sút cân, ăn mất ngon
- Đau xương hoặc gãy xương bệnh lý
- Đau phù chi dưới
- Suy thận nếu ung thư tiền liệt tuyến xâm lấn hai lỗ niệu quản và các hạch sau phúc mạc.
Hình 3: khám tiền liệt tuyến qua đường trực tràng
3. Một số phương pháp để chẩn đoán UTTLT
Khám TLT bằng tay qua trực tràng có thể phát hiện thấy tiền liệt tuyến có nhân rắn, các thuỳ không đối xứng, mật độ không đều hoặc tiền liệt tuyến rắn chắc không còn ranh giới rõ ràng với tổ chức xung quanh.
Xét nghiệm máu PSA - một loại kháng nguyên đặc hiệu của tiền liệt tuyến (PSA trong máu bình thường thay đổi từ 0 - 4 nanograms/ml). PSA do các tế bào TLT tiết ra, đặc biệt là các tế bào UTTLT tiết ra rất nhiều PSA trong máu bệnh nhân. Phần lớn PSA trong máu đều gắn với protein huyết tương. Chỉ có khoảng 30% ở dạng tự do. Vì vậy PSA được coi là dấu ấn của ung thư TLT. Giá trị bình thường của PSA dưới 4 ng/ml. Khi PSA trên 10 ng/ml thì thật sự có bất thường và phải kiểm tra TLT ngay. Từ 4 - 10 ng/ml là giá trị trung gian cần phải theo dõi thường xuyên( cần đánh giá thêm tỷ lệ PSA tự do/ PSA toàn phần, < 15% nguy cơ UTTLT là rất cao). Tuy nhiên, PSA toàn phần sẽ gia tăng trong trường hợp có bệnh lý ở tiền liệt tuyến như viêm, phì đại nhưng thường gặp nhất trong ung thư và tăng theo tuổi. PSA là xét nghiệm tương đối chính xác trong các xét nghiệm hiện nay về ung thư, có thể đánh giá chính xác về UTTLT. Nếu xét nghiệm PSA được thực hiện rộng rãi trong sàng lọc UTTLT, rất có thể sẽ tăng tỉ lệ UTTLT phát hiện ở giai đoạn sớm. Tuy nhiên, 10-20% UTTLT lại có trị số PSA bình thường nên thường phải kết hợp thêm những phương pháp khác.
Siêu âm qua đường bụng hoặc siêu âm nội trực tràng: sẽ có tác dụng chẩn đoán tương đối đặc hiệu.
Sinh thiết tuyến tiền liệt: là xét nghiệm quan trọng nhất để chẩn đoán một trường hợp mắc UTTLT hay không, được chỉ định khi kết quả sàng lọc nghi ngờ có sự tồn tại của ung thư tiền liệt tuyến. Sinh thiết TLT giúp đánh giá độ biệt hóa tế bào qua vi thể. Độ biệt hóa có ý nghĩa tiên lượng rất rõ rệt. Tỷ lệ di căn hạch chiếm khoảng 20 – 30% các ung thư tiền liệt tuyến, tuy nhiên ung thư tuyến tiền liệt hay di căn vào xương, di căn vào phổi và đôi khi gặp di căn vào gan.
Một số xét nghiệm khác giúp chẩn đoán giai đoạn bệnh như: chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, chụp xạ hình xương, chụp PET/CT.
4. Các phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt
• Chủ yếu là phẫu thuật khi bệnh giai đoạn sớm. Tuy nhiên đòi hỏi phẫu thuật viên có kinh nghiệm. Nếu cắt bỏ khối u rộng rãi tỷ lệ sống còn sau phẫu thuật tới trên 90%.
• Xạ trị có 2 phương pháp: xạ ngoài, đặc biệt là xạ trị gia tốc với ống chuẩn trục đa lá tạo ra được lui bệnh cũng tương tự như phẫu thuật; phương pháp xạ trị áp sát dùng các nguồn phóng xạ cắm vào tuyến tiền liệt cũng tạo ra được sự đáp ứng tương tự xạ trị từ xa.
• Phương pháp điều trị nội tiết hiện nay được ưa dùng. Đơn giản nhất là cắt tinh hoàn, ít tốn kém, làm giảm được 95% nồng độ testosterol trong máu. Ở phương Tây, việc cắt tinh hoàn khó được chấp nhận. Có những phương pháp điều trị nội khoa bằng thuốc nội tiết thay thế cho cắt tinh hoàn như sử dụng estrogen, sử dụng progesterol, sử dụng các chất kháng androgen và sử dụng các thuốc ngăn chặn sản xuất testosterol.
• Một số phương pháp khác: phá hủy tuyến tiền liệt bằng phương pháp đông lạnh qua đường trực tràng ít được ứng dụng ở nước ta, hóa chất bằng những thuốc mới cũng đã được thử nghiệm nhưng hiệu quả chưa rõ rệt.
• Các phương pháp điều trị sẽ được quyết định dựa vào các chẩn đoán xác định ung thư, chẩn đoán giai đoạn bệnh được tiến hành trước đó. Hiện nay, 2 phương pháp điều trị chủ yếu và rất hữu hiệu là phẫu thuật và xạ trị. Bệnh có thể chữa khỏi hoàn toàn nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời chỉ bằng hoặc phẫu thuật hoặc xạ trị. Phương pháp phẫu thuật triệt để là cắt toàn bộ TLT qua mổ mở hoặc qua nội soi. Biến chứng phẫu thuật có thể gặp là tiểu không kiểm soát và rối loạn cương.
• Với giai đoạn sớm kết quả điều trị của phẫu thuật và xạ trị là khá tương đồng. Tuy nhiên xạ trị tỏ ra ưu thế hơn vì tỉ lệ biến chứng thấp hơn. Đặc biệt, xạ trị được xem là chọn lựa ưu tiên cho những bệnh nhân lớn tuổi, thường có những bệnh lý nội khoa kèm theo (tim mạch, hô hấp, đái tháo đường...) gây trở ngại cho việc phẫu thuật. Ở giai đoạn muộn khi tế bào ung thư đã lan vào các cơ quan lân cận, hạch chậu, hoặc di căn xa, việc điều trị trở nên phức tạp hơn và thường đòi hỏi kết hợp nhiều phương thức điều trị như phẫu thuật, xạ trị, nội tiết tố liệu pháp và đôi khi cả hóa chất.
• Tóm lại, nam giới lớn tuổi, có các yếu tố nguy cơ của UTTLT (gia đình có người bị UTTLT, bản thân mắc phì đại TLT, tiền sử tiếp xúc phóng xạ, rối loạn tiểu tiện…) cần đi khám sàng lọc (thử PSA, khám tuyến tiền liệt) để phát hiện sớm nếu mắc UTTLT. Đối với các trường hợp đã chẩn đoán UTTLT, nếu ở giai đoạn sớm điều trị tốt nhất là phẫu thuật, xạ trị được áp dụng ở một số trường hợp. Điều trị nội tiết khi không còn chỉ định phẫu thuật và cho những trường hợp đã thất bại sau khi phẫu thuật hoặc xạ trị.
Bệnh viện quốc tế Nhân Đức, với đội ngũ bác sỹ giàu kinh nghiệm và hệ thống trang thiết bị đồng bộ hiện đại, có thể chẩn đoán và điều trị UTTLT hiệu quả. Hiện tại bệnh viện đã thiết kế Gói khám sức khỏe định kỳ và phát hiện sớm ung thư tiền liệt tuyến.
Nếu bạn hoặc người nhà có nguy cơ hoặc dấu hiệu bệnh lý tiền liệt tuyến, đừng ngại đặt lịch hẹn khám vào một ngày sớm nhất.